Niềm vui khi đi thăm lúa
Nói gì thì nói không thể phủ nhận vai trò của lúa lai trong việc đảm bảo an ninh lương thực. Hà Nam là một tỉnh thuần nông, tuy với diện tích canh tác lúa chỉ khoảng 35.000 ha/vụ nhưng nhờ áp dụng những tiến bộ về giống lúa có ưu thế lai (chiếm khoảng 50%) trong những năm vừa qua năng suất lúa không ngừng gia tăng, đạt trung bình trên 6 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 406.238 tấn, góp phần không nhỏ vào ninh lương thực.
Theo tính toán nếu không có lúa lai, số lượng gạo cứu đói năm 2017 ở Hà Nam sẽ còn tăng lên về lượng hơn rất nhiều. Không có lúa lai số lượng tỉnh, thành làm công văn xin gạo cứu đói sẽ không còn dừng lại ở 15.
Về năng suất, khả năng chống chịu thì lúa lai hơn hẳn lúa thuần đã đành nhưng về chất lượng gạo vẫn còn nhiều người phải lăn tăn. Cũng như nhiều tỉnh thành ở miền Bắc, Hà Nam rất mong muốn có những giống lúa lai vừa năng suất, chống chịu tốt lại vừa chất lượng. Được sự đồng ý và chỉ đạo của Sở NN-PTNT Hà Nam, Cty Bayer, Phòng NN-PTNT huyện Thanh Liêm đã tiến hành xây dựng mô hình trình diễn các giống lúa lai mới có tiềm năng năng suất cao, chất lượng khá tại xã Thanh Hà với diện tích gọn vùng 2ha cho giống lúa Tej Vàng.
Những người thực hiện mô hình nhận thấy giống lúa lai 3 dòng thí nghiệm có khả năng đẻ nhánh khỏe, số bông hữu hiệu đạt cao trung bình 250 - 260 bông/m2, cao hơn so với đối chứng là Nhị ưu 838 từ 30 - 40 bông/m2 (1,4 - 1,5 bông/khóm đối với lúa cấy). Tổng số hạt trên bông cao, bình quân 172,7 - 189,2 hạt/bông, cao hơn so với giống đối chứng 23,7 - 40,2 hạt/bông. Khối lượng 1.000 hạt của 2 giống thí nghiệm là 22g, thấp hơn so với Nhị ưu 838 là 27g.
Độ thuần đồng ruộng của giống tương đối cao khi ở vụ đông xuân năm đó tỷ lệ cây xanh và cây cao chỉ rải rác <1%. Về hình thái, Tej Vàng có dạng hình thân cứng, bộ lá dầy to, dải lá và màu xanh nhạt hơn giống Nhị ưu 838. Giống chịu rét khá và chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất lợi nhất là kháng bạc lá, đẻ nhánh khỏe, cứng cây và trỗ thoát cổ bông. Có hình dạng hạt nhỏ dài, màu sắc hạt vàng nhạt, bông to dài và hạt sếp xếp xít hơn. Năng suất thực thu của giống Tej Vàng là 69,4 tạ/ha, cao hơn 6% so với giống đối chứng.
Đó là xét ở khía cạnh sức chống chịu và năng suất, những đặc điểm vốn sẵn có ở những giống lúa lai thế hệ cũ. Còn với Tej Vàng - một giống lúa lai thế hệ mới thì còn khác biệt ở chất lượng gạo nữa.
Ruộng lúa chín có màu sắc rất đẹp
Bà con thực hiện mô hình đều rất bất ngờ, thích thú khi được ăn bữa cơm gạo mới đầu tiên với Tej Vàng. Hạt cơm thuôn dài, trắng ngà óng ả như những hạt ngọc. Mùi hương dìu dịu, nhẹ nhàng. Cơm dẻo vừa lại có vị ngon đậm đà hơn hẳn so với đối chứng là Nhị ưu 838 nên ăn rất hợp thị hiếu và bán thì luôn hơn giá 1.000đ/kg.
Trước những gì đã thể hiện trên thực tế, Phòng Trồng trọt đã đề nghị Cty Bayer khảo nghiệm trên diện rộng cả 2 vụ đối với khí hậu miền Bắc để sớm khẳng định tính ưu việt của giống lúa lai.
Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là Tej Vàng có thời gian sinh trưởng dài hơn vài ngày so với Nhị ưu 838 nên cần tránh khung lúa trỗ lúc thời tiết nắng nóng, nhiệt độ cao làm cho bông phơi màu kém dẫn đến tỷ lệ lép cao. Cần hướng dẫn các địa phương bố trí mùa vụ phù hợp để lúa trỗ xung quanh tiết lập hạ thuận lợi cho lúa trỗ bông, phơi màu và kết hạt đảm bảo tính ưu việt của giống.
Tej Vàng là giống lúa lai 3 dòng do viện nghiên cứu lúa của Bayer tại Ấn Độ nghiên cứu từ năm 2012 và được thương mại hoá tại Ấn Độ, Pakistan, Việt Nam. Giống có 3 đặc điểm nổi trội sau:
Chứa tổ hợp gen kháng bạc lá (có 3 gen kháng bạc lá) bằng cách lai tạo truyền thống và hiện đại nên gần như có khả năng kháng tối đa bệnh bạc lá, khác với các giống có 1 chứa 1 gen kháng bạc lá.
Năng suất cao hơn lúa thuần 20% và cao hơn lúa lai cùng trà 5% với trung bình đạt 68 đến 75 tạ/ha.
Hạt gạo dài 7,1mm, dài nhất trong các giống lúa hiện nay, chất lượng cơm ăn khá.
Ở các tỉnh có áp lực bệnh bạc lá nặng, Tej Vàng là giống duy nhất chứa đa gen kháng bạc lá nên luôn là sự lựa chọn số một.
Nguồn: nongnghiep.vn